1. Hoạt động của não bộ và sự mất thăng bằng các chất hóa học
Một số khu vực của não bộ giúp điều chỉnh tâm trạng. Các nhà nghiên cứu tin rằng, quan trọng hơn cả sự mất thăng bằng giữa những chất hóa học cụ thể trong não thì những kết nối tế bào thần kinh, sự tăng trưởng của tế bào thần kinh và hoạt động của những mạch tâm thần mang ảnh hưởng to tới bệnh trầm cảm.
1.1. Vùng não bộ ảnh hưởng đến tâm trạng
Thông qua các bí quyết chẩn đoán hình ảnh hiện đại như: PET, SPECT, MRI… người ta phát hiện ra rằng, hồi hải mã nhỏ hơn ở một số người trầm cảm. Trong một nghiên cứu được ban bố trên Tạp chí Khoa học Thần kinh, những nhà điều tra đã phát hiện ra hồi hải mã ở nữ giới trầm cảm nhỏ hơn 9-13% hồi hải mã của đàn bà bình thường. Kích thước hồi hải mã cũng tỷ lệ nghịch mang tần suất xuất hiện của các cơn trầm cảm.
1.2. Sự mất thăng bằng của những chất dẫn truyền thần kinh
Các nhà kỹ thuật đã xác định được siêu nhiều chất dẫn truyền khác nhau với tương tác tới cơ chế bệnh sinh của trầm cảm.
- Acetylcholine: Mặc dù acetylcholine đóng vai trò vô cùng quan yếu trong những hoạt động cấp cao của não bộ như khả năng ghi nhớ, nhận thức, sự tập trung… Nhưng cũng có nghiên cứu cho thấy nó góp phần dẫn tới trầm cảm khi có tình trạng mất cân bằng xảy ra.
- Serotonin: “Giả thuyết serotonin” về trầm cảm lâm sàng đã có từ hơn 50 năm trước. Đơn giản nhất, sự suy giảm hoạt động của serotonin đóng 1 vai trò quan yếu các duyên cớ gây trầm cảm. Các thuốc điều trị trầm cảm cũng tụ tập làm tăng lượng serotonin trong não.
- Norepinephrine: Các nghiên cứu cho thấy norepinephrine mang tầm quan trọng to trong sinh lý bệnh và điều trị rối loàn trầm cảm. Làm tăng dẫn truyền tâm thần norepinephrine bảo vệ con người khỏi trạng thái trầm cảm do bít tất tay gây ra, trong lúc sự suy giảm của norepinephrine làm tăng tính mẫn cảm của bệnh nhân trầm cảm đã bình phục mang tái phát trầm cảm. Các tác nhân trị liệu đặc trưng làm cho nâng cao hoạt động của norepinephrine là thuốc chống trầm cảm hiệu quả.
- Dopamine siêu phải thiết cho sự vận động. Các vấn đề trong công đoạn truyền dopamine sở hữu ảnh hưởng tới chứng rối loàn tâm thần, 1 dạng nghĩ suy sai lệch nghiêm trọng, đặc biệt bởi ảo giác hoặc ảo tưởng.
- Glutamate: Giải phóng quá nhiều glutamate có liên quan đến căng thẳng và nhiều bệnh thoái hóa thần kinh. Bằng chứng cho thấy các thất thường của dẫn truyền thần kinh glutamatergic hoặc rối loạn chức năng glutamatergic đóng một vai trò quan yếu trong sự vững mạnh của đa dạng rối loạn tâm thần như: Trầm cảm nặng, thần kinh phân liệt, rối loàn lưỡng cực.
- Axit gamma-aminobutyric (GABA): Các thụ thể GABA và GABA A sở hữu mặt khắp nơi trong hệ thống thần kinh trung ương, đóng vai trò căn bản trong việc kiểm soát sự ức chế thần kinh. Đã có báo cáo rằng trầm cảm đi kèm có mức GABA trong dịch não tủy phải chăng hơn và dựa trên các phân tách hình ảnh thần kinh, GABA được báo cáo là giảm tại vỏ não bên trước trán và chẩm ở bệnh nhân trầm cảm.
2. Yếu tố di truyền trong bệnh trầm cảm
Các nghiên cứu về gia đình và sinh đôi đã cung cấp chứng cứ mạnh mẽ về sự đóng góp của những khía cạnh di truyền vào nguy cơ trầm cảm. Ví dụ, một phân tích tổng hợp dữ liệu nghiên cứu song sinh cho thấy tỷ lệ di truyền đối mang bệnh trầm cảm là 37%, và dữ liệu từ các nghiên cứu gia đình cho thấy nguy cơ mắc bệnh trầm cảm nâng cao gấp 2-3 lần ở con cái, ví như có tía má bị bệnh trầm cảm. Mức độ nghiêm trọng của bệnh trầm cảm cũng phụ thuộc vào việc nó được di truyền từ bố hay mẹ.
Trong một nghiên cứu được công bố vào tháng 7 năm 2015 trên tập san Nature, các nhà khoa học cho biết đã tìm thấy hai dấu hiệu di truyền mang ảnh hưởng rõ ràng đến chứng trầm cảm nặng.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của gen trong việc hình thành khả năng thích nghi, phản ứng đáp trả trước các tác động thụ động từ bên không tính từng cá nhân.
3. Trầm cảm sau lúc trải qua những sự kiện chấn động hoặc các chấn thương
Có muôn nghìn những sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày tương tác tới tâm lý, tình cảm của con người. Có những chuyện sẽ mau chóng qua đi nhưng cũng sở hữu những sự kiện để lại các ám ảnh sâu dung nhan trong tâm não của mỗi cá nhân.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, các mất mát sớm và chấn thương ý thức sở hữu thể khiến cho các cá nhân dễ bị trầm cảm hơn trong cuộc sống sau này. Những mất mát to to như loại chết của người thân thiết, bị bỏ rơi, bị bạo hành, bị lạm dụng tình dục, thậm chí là các sang chấn, chấn thương sau chiến tranh…. có thể trở nên kí ức không thể quên, là nỗi ám ảnh dằng dai và hậu quả là trầm cảm. Thậm chí có các người sau điều trị vẫn rất dễ bị tái phát vì đấy là phần kí vãng không thể thay đổi hoặc lúc gặp buộc phải một biến cố tương tự.
Một nghiên cứu đăng trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ cho thấy, những người bị lạm dụng thể chất hoặc dục tình khi còn nhỏ sẽ mang xu hướng phản ứng mạnh và thụ động mang những bít tất tay từ cuộc sống hàng ngày so với các người ko bị bạo hành.
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng, sang chấn tâm lý từ lúc còn nhỏ sẽ gây ra những thay đổi trong chức năng não, khiến xuất hiện các triệu chứng trầm cảm và lo âu sau này. Các vùng não bộ tác động đến phản ứng găng có thể bị thay đổi về cấu trúc, hình thái và chức năng ở cấp độ hóa học hoặc tế bào. Những thay đổi có thể bao gồm sự mất thăng bằng về nồng độ chất dẫn truyền thần kinh hoặc thương tổn thực thể những tế bào thần kinh.